Thursday, October 13, 2011

Công nghiệp du lịch sinh thái - Halong bay Vietnam


Không có lý gì lại mong đợi khu vực doanh nghiệp nhỏ của ngành công nghiệp du lịch sinh thái sẽ có đủ khả năng cung cấp kinh phí hoàn toàn cho các chương trình của bản thân các doanh nghiệp này. Trong thực tế, hầu như ở tất cả các nước trên thế giới đều thiếu kinh phí cho những chương trình như vậy. Nghiên cứu của Hiệp hội Du lịch Sinh thái chỉ ra rằng các doanh nghiệp du lịch và nhà nghỉ sẵn sàng trả tiền cho việc đánh giá hoặc tổ chức gây quỹ cho các chương trình về du lịch sinh thái của họ (The Ecotourism Society, 1993), nhưng lệ phí sẽ không bao giờ đủ để trang trải cho một chương trình độc lập để đánh giá việc thực thi này. Việc thực hiện quá trình giám sát tại Halong bay Vietnam sẽ vô cùng tốn kém kể cả ở mức độ địa phương, quốc gia hay quốc tế. Một số công ty tư nhân và một vài nhóm thương mại quốc tế đang bắt đầu tham dự vào trò chơi có hạng này qua việc đưa ra các con dấu xanh cho việc thu lệ phí trực tiếp, hoặc các con dấu xanh liên quan đến một chương trình tư vấn mà có thể giúp đỡ những nơi ăn nghỉ của du lịch sinh thái làm xanh các khách sạn của họ. Trong khi các chương trình này đa dạng và biến đổi phù hợp với các lợi ích, chúng không giải quyết được vấn đề sắp đặt các tiêu chuẩn xác thực và có thể chấp nhận được ở mức quốc gia và quốc tế về lĩnh vực chịu trách nhiệm.
Tất cả các tuyến tham quan có nhu cầu lớn về du lịch hiện nay đã nhận thức được các tiêu chuẩn của du lịch sinh thái (Tyel, 1997), và ngành này đã thấy được sự cần thiết về các chương trình tạo kinh phí hợp pháp. Thực tế ở các nước như Kenya, ngành kinh doanh du lịch đang đòi hỏi sự trợ giúp từ phía chính phủ ở cấp độ quốc gia để thình thành nên các chương trình tạo kinh phí hợp pháp cho du lịch sinh thái. Căn cứ vào các chi phí cho việc khai trương một chương trình có sự giám sát thích hợp và thiết kế mức định giá thuế, diều mà khu vực tư nhân làm việc với chính phủ để giành được kinh phí quốc gia đang bị chì trích. Sử dụng những hướng dẫn của Hiệp hội Du lịch Sinh thái hoặc Hiệp hội Du lịch Sinh thái Australia sẽ làm cho quá trìnhthực thi một chương trình mới giảm bớt phần nghiên cứu, và tăng tính khả thi của một hệ thống đáp ứng được những chỉ tiêu quốc tế.
Công nghiệp du lịch sinh thái đã tiến hành rất nhiều các dự án đổi mới trong năm năm qua cho sự bảo tồn và bền vững. Một hiệp hội các nhà quản lý khu bảo tồn ở Costa Rica đang làm việc trực tiếp với tổ chức Dịch vụ Vườn Quốc gia Costa Rica để trợ giúp những doanh nghiệp du lịch sinh thái, những người quản lý các tài nguyên sinh vật (The Ecotourism Society, 1997b). Quỹ ACEER ở Peru đang được giao trách nhiệm bảo vệ hơn 100.000 hecta rừng mưa nhiệt đới nguyên sinh do sự thành công từ các hội thảo về Rừng mưa Nhiệt đới của Hiệp hội các Hành trình Quốc tế. Hiện nay, nền móng của sự đổi mới này đang ngấm sâu vào giáo dục địa phương và các vấn đề phát triển và đứng ở vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực bảo tồn ở Peru. Các tổ chức lớn về bảo tồn như Quỹ Ðộng vật Hoang dại và Hiệp Hội Bảo tồn Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế Halong bay Vietnam đã tránh xa du lịch sinh thái bởi nhận thức không đầy đủ của họ về ngành du lịch này, nhưng ngày nay họ đang thiết lập các dự án du lịch sinh thái như một công cụ bảo tồn trên khắp thế giới. Thậm trí cả các ngân hàng phát triển cũng đang cố gắng tham gia vào lĩnh vực này. Tuy nhiên, họ thấy rằng thường (chứ không phải là không) các dự án du lịch sinh thái có quy mô nhỏ rất khó được cung cấp kinh phí bởi vì các dự án của ngân hàng thường điển hình là trong khoảng 5-10 triệu đôla hoặc hơn (Hawkins, 1996).

No comments:

Post a Comment